CHỦ NHẬT THỨ NĂM MÙA CHAY B
Hành trình mùa Chay dẫn chúng ta đồng hành với Chúa Giê su trên con đường hi sinh thập giá. Niềm vâng phục của ông A bra ham cũng như những đau khổ của Dân Chúa trên bước đường lưu đày đã giúp chúng ta khám phá ra các nguồn suối hi vọng đầy sức sống. Hôm nay, cuộc hành trình ấy đưa chúng ta lên tới điểm cao nhất: cùng với Chúa Giê su chúng ta leo lên đồi Can vê với hy vọng được Ngài lôi kéo chúng ta lên tới Thánh ý Thiên Chúa Cha hằng yêu thương chúng ta.
Sách Gr 31, 31-34:
Chúng ta biết rằng dù chúng ta có khước từ, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Người muốn tha thứ cho chúng ta để từ nay, Lề luât không không còn áp đặt từ bên ngòai nữa. Trái lại, trong Giao Ước mới, Lề luật của Thiên Chúa sẽ được ghi khắc trong đáy sâu thẳm tâm hồn. Lề luật ấy không còn là một bộ luật vô hồn, mà là Một Đấng đang yêu thương. Việc vâng phục Lề luật từ nay sẽ có nghĩa là sống cùng một sự sống với Đấng đang hiện diện trong chúng ta.
Thánh vịnh 50:
Chúng ta hãy khiêm nhường xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi, với niềm xác tín rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta một thần khí mới, một sự sống mới. Chỉ có ơn Thiên Chúa mới có thể tẩy rửa tâm hồn chúng ta để biến thành nơi ở xứng đáng đẹp lòng Thiên Chúa.
Thư Hr 5,7-9:
Thánh Phao lô dạy cho chúng ta biết cái giá mà Chúa Giê su phải trả để thiết lập Giáo Ước với Israel mới là Giáo Hội. “Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”. Trên thánh giá, Ngài đã cho thấy sự vâng phục tuyệt đối trước Thánh ý Thiên Chúa Cha và tình yêu tột cùng của Ngài dành cho nhân lọai.
Tin mừng Ga 12,20-33
Giờ của Chúa Giê su
NGỮ CẢNH
Tin mừng Ga được bố cục làm hai phần: phần đầu là sách ghi lại các dấu chỉ (1-12), và phần sau là cuộc Khổ nạn và Phục sinh (13-21). Tuy nhiên khó mà ấn định giới hạn rạch ròi giữa hai phần. Việc xức dầu ở Bê ta ni a (12,1-11) và cuộc khải hoàn vào thành Giê ru sa lem (12,12-19) thường được các sách Tin mừng đặt ở phần dẫn vào cuộc Khổ nạn. Riêng Ga thì lại thêm đoạn nói về việc giờ của Ngài đã đến nhân dịp một nhóm người Hi lạp bày tỏ ước mong được thấy Ngài (12,20-36).
Chúng ta có thể đọc đoạn văn nầy theo bố cục như sau:
1. Nhập đề: (12,20-22): gặp gở nhóm người Hi lạp và ước muốn của họ.
2. Chúa Giê su trả lời (23-26) cho biết giờ của Ngài đã đến.
3. Tâm tư xao xuyến của Chúa Giê su trước giờ của Ngài (27-33): đó là giờ vinh quang, nhưng cũng là lúc Ngài được giương cao khỏi đất.
GIẢI THÍCH
Mấy người Hi lạp: “lên Giê ru sa lem thờ phượng Chúa”. Đây là những người ngoại trở lại với đức tin do thái giáo. X. Cv 8,27. Một lần nữa trong tin mừng, Gio an cho thấy một ám chỉ đến lễ Vượt qua sắp được cử hành.
Được gặp ông Giê su: có vẻ như những người Hi lạp nầy không chỉ tỏ cho thấy mình là những người trở lại đạo do thái. Họ còn tìm cách gặp Chúa Giê su. Nơi họ đã hoàn thành lời tiên báo của người biệt phái: “Kìa thiên hạ đều đi theo ông ấy hết!” (12,19).
Ông Phi líp, ông An rê: x.1,40-44; 6,5-8. có lẽ người ta đến với họ vì họ mang tên Hi lạp. Họ gốc ở Bết sai đa vùng Ga li lê nơi có nhiều người hi lạp nhất.
Chúa Giê su: như ở 8,9; 4,11-16 ; 6,26. Chúa Giê su không trực tiếp trả lời. Ngài tìm cách hướng những người đàm thọai đến mầu nhiệm của bản thân Ngài, ngay chính lúc « họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu » (19,37).
Giờ: câu trả lời của Chúa Giê su cũng còn nhắm đến các môn đệ của Ngài và đám đông nữa. Việc người hi lạp đến, - được coi như một sự vượt qua của dân ngoại - đối với Chúa Giê su là một dấu chỉ: đã đến lúc phải tôn vinh Thiên Chúa và cứu độ thế gian bằng cuộc Khổ nạn của Ngài. Những người hi lạp nầy đại diện cho tất cả các dân ngoại đi tìm một đấng Cứu độ (như những người Sa ma ri ta nô : 4,15.25.39-42).
Được tôn vinh: đây chính là vinh quang đích thực. Không phải thứ vinh quang được đám đông tung hô, mà là vinh quang được mạc khải, ngang qua sự chết và phục sinh, căn tính Chúa Giê su đối với Cha và cho chúng ta. Chúng ta sẽ có thể chiêm ngưỡng một khi Ngài sẽ được tôn vinh.
Hạt lúa: một lời nói bao hàm cả một dụ ngôn. Một hạt giống chết trong lòng đất sẽ sinh ra nhiều hạt khác (x. 1Cr 15,36-44). Đây là cách thức thứ hai trả lời cho người Hi lạp. Hy tế của Chúa Giê su sẽ đem lại “nhiều hoa trái”, sẽ khiến cho các tín hữu trên toàn thế gian qui tụ lại. Dụ ngôn có thể áp dụng cho tất cả mọi người tin vào Chúa Giê su.
Mạng sống mình: dịch sát chữ: “linh hồn mình”, nghĩa là sự sống con người. Ở đây có hai từ hi lạp khác nhau: “linh hồn” và “sự sống” vĩnh cửu.
Ai yêu “sự sống” mình thì sẽ mất. Đó là luật của ơn cứu độ đòi hỏi một sự từ bỏ chính bản thân mình. Trong Giáo hội, chúng ta thường có khuynh hướng chọn giữa cuộc sống phàm trần của chính mình và đức tin vào Chúa Giê su.
Trong các tin mừng nhất lãm có những công thức tương tự và luôn luôn đi sau một lời loan báo Khổ nạn (Mc 8,35; Mt 16,25; 10,39; Lc 9,24; 17,33). Sự nhấn mạnh ấy là dấu cho thấy rằng giáo huấn nầy của Chúa Giê su chắc chắn đã được đặc biệt đề cao thời các tông đồ.
Thầy ở đâu: lời khẳng định kép về tương quan giữa cái chết của Chúa Giê su và sự từ bỏ của người tôi tớ. Chúa Giê su sẽ lặp lại lời hứa của Ngài trong 14,3 và một cách long trọng hơn nữa trong lời nguyện với Cha: “Lạy Chúa.. con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (17, 24).
Cha: vinh dự của người tôi tớ sẽ là được tham dự vào vinh quang của Con. “Vậy đã là Con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17). X. thêm 1 Cr 15,43; Ep 2,6.
Cuộc phục sinh ông La gia rô vừa chứng tỏ cho các môn đệ thấy Chúa Giê su là sự sống lại và là sự sống.
Xao xuyến: bản văn hi lạp của câu nầy khó hiểu. Động từ hi lạp có nghĩa là “xao xuyến” chỉ xuất hiện trong Ga, được áp dụng cho Chúa Giê su ba lần: khi Chúa Giê su thấy Ma ri a khóc thương La gia rô (11,33), ở đây và khi nói về việc ông Giu đa làm phản (13,21). Đó là một ám chỉ đến Tv 42,6-7, mà Mc và Mt đặt trên miệng Chúa Giê su ở vườn cây dầu. Gioan viết lại trình thuật hấp hối một cách khác hẳn :
Gioan 12 |
Mác cô 14 |
27: Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến; |
34: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được (Tv 42) |
Thầy biết nói gì đây Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ nầy. |
35: Và Ngài cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. |
Nhưng chính vì giờ nầy mà con đã đến!
28: Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha. |
36: “… nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn. |
Trong hai cảnh khác nhau trên đây, có cùng một cuộc chiến đấu nội tâm giữa ý muốn nhân loại của Chúa Giê su và sự vâng phục của Con, sự thông hiệp với chương trình của Thiên Chúa. Ga ám chỉ đến một quyết định hơn là một cuộc chiến; và đã cho thấy vương quyền của Chúa Giê su trong suốt quá trình khổ nạn.
Xin tôn vinh danh Cha: Điều mà Chúa Giê su ao ước không gì khác hơn là sự tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa sẽ được mạc khải trong cái chết và sự sống lại của Ngài: “Xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha hiển trị, ý Cha thể hiện” (Mt 6,9-10).
Tiếng từ trời: coi tiếng sấm là “giọng Thiên Chúa nói” là điều bình thường trong Thánh Kinh. Như trong khung cảnh Si nai (Xh 19,19; G 37,4; Tv 29,3-9). Đoạn nầy có thể được đặt song song với trình thuật Biến hình:
|
Gioan 12 |
Mác cô 9 |
Sự tỏ hiện của Thiên Chúa |
28: Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống |
7: Và từ đám mây có tiếng phán rằng: |
Chứng cho Con |
30: Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. |
7: Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người! |
Đã tôn vinh: Cha đã tôn vinh danh của Người qua các việc mà Người đã ban cho Chúa Giê su thực hiện (11,4).
Sẽ còn tôn vinh nữa: lời Thiên Chúa đáp lại lời cầu nguyện của Chúa Giê su là chìa khóa mở ra ý nghĩa chính yếu của khung cảnh trung tâm (13,37-33). Sự tôn vinh Cha sẽ được thực hiện trong cái chết và phục sinh của Chúa Giê su. Ơn ban Thánh Thần và sự bành trướng tin mừng sẽ là sự hoàn thành sau hết của công việc tôn vinh nầy.
Một thiên thần: sự phỏng đoán của đám đông có thể nhắc tới vị thiên sứ đã xuất hiện trong cơn hấp hối theo Lc 22,43.
Giờ đây: giờ đang đến không những là giờ thử thách của Chúa Giê su, mà còn là giờ của toàn thể thế gian. Giờ của Đức Ki tô (12,27) cũng là giờ của chúng ta (hai lần lặp lại ở đây). Đó là giờ chống đối, thuận theo hay chống lại Chúa Giê su, xét xử chúng ta. Tin mừng đã nói về giờ nầy trong các câu 3-8. Đó là giờ của vương quốc sự thật và giờ mà Sa tan bị xua đuổi.
Được giương cao lên khỏi mặt đất: X. 3,14. Kiểu nói gợi lại việc đóng đinh thập giá và tôn vinh. “Đất” được nói tới như trong c.24. Trong hiến tế, Chúa Giê su không biến mất khỏi thế gian nhưng được giương cao và được tôn vinh.
Tôi sẽ kéo: X. người mục tử nhân lành (10,16) và lời tiên tri của ông Cai pha (11,52).
Ám chỉ: có lẽ nên dịch theo nghĩa mạnh của từ nầy là: tỏ ra, cho một dấu chỉ. Chúa Giê su trao ban thập giá như là dấu chỉ mạc khải bản thân và việc Ngài làm (được giương cao và kéo lên).
Sẽ phải chết cách nào: cách ném đá mà người ta thường đe doạ Ngài lẽ ra đã làm cho Ngài quị ngã xuống đất. Cách đóng đinh thập giá mang một ý nghĩa biểu tượng. Nó đưa Chúa Giê su lên cao khỏi mặt đất.
SỨ ĐIỆP
« Chúng tôi muốn thấy Chúa Giê su ». Đó là yêu cầu của những người Hi lạp sau ngày lễ lá. Họ là những người có thiện cảm với Do thái giáo, đến Giê ru sa lem dự lễ Vượt qua. Khi biết tin Chúa Giê su khải hoàn vào thành Giê ru sa lem, họ đi tìm các môn đệ. Cuối cùng gặp ông Phi líp, họ bày tỏ lòng khát khao muốn thấy Chúa Giê su, chiêm ngưỡng vinh quang của Đấng mà mọi người cảm mến chúc tụng.
« Chúng tôi muốn thấy Chúa Giê su ». Đó là một lời nói diệu kì phát xuất từ tâm hồn ao ước Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều muốn như thế. Hãy tưởng tượng xem điều gì xảy ra nếu chúng ta có thể thấy Ngài đang trên đường vào nhà thờ chúng ta. Chúng ta sẽ ngưỡng mộ Ngài. Nhưng Ngài không tỏ hiện vì lí do đó. Tin mừng chủ nhật hôm nay cho chúng ta một câu trả lời khác của Chúa Giê su đáp lại sự mong chờ của những người Hi lạp ấy. Ho ao ước nhìn thấy Ngài, họ sẽ được mãn nguyện, nhưng vinh quang mà họ được mời gọi nhận lãnh chính là vinh quang của đấng chịu đóng đinh.
Lời Chúa nhắc cho chúng ta nhớ biến cố đã xảy ra trong tuần thánh sau chủ nhât lễ Lá. Đó là giây phút mà Ngài sẽ được tôn vinh, nhưng không theo cách người ta nghĩ. Đó là giờ mà Ngài chờ đợi ngay từ đầu sứ mạng. Nếu nhóm người hi lạp ước mong thấy, thì họ sẽ mãn nguyện khi nhìn thấy một người giống như tất cả mọi người khác, bị đau khổ tận cùng cho đến chết. Ho sẽ nhìn thấy cải chết của đấng là tác giả của sự sống, một người bị treo cao trên tất cả, bị đóng đinh trên thập giá. Chính con người mang tên Giê su ấy khi bị treo lên khỏi đất sẽ nhận được vinh quang Thiên Chúa ban thưởng, bởi vì Ngài sẽ lôi kéo tất cả mọi người đến với Ngài, nhưng dưới diện mạo của một người tử tội.
Đức Ki tô cũng nói như thế với từng người chúng ta hôm nay. Nếu chúng ta muốn gặp Ngài, chúng ta đừng quên một điều rất quan trọng: chúng ta sẽ gặp Ngài nơi mà chúng ta không bao giờ nghĩ là nhìn thấy Ngài. Ngài luôn ẩn nấp dưới hình dạng hay diện mạo mà chúng ta không bao giờ nghĩ đến. Ngài hiện diện nơi các bệnh nhân mà chúng ta thăm viếng trong các bệnh viện; Ngài là người bị xã hội loại trừ vì nhiều lí do, là người tù nhân hay nạn nhân của những vu khống và tin đồn. Tất cả những gì mà chúng ta làm cho một người bé nhỏ nhất trong anh em, là chúng ta làm cho chính Ngài.
Với Chúa Giê su, các giá trị đã bị đảo chiều. Sự bị khinh dễ trở nên cao cả. Thất bại trở nên chiến thắng. Dụng cu hành hình dữ dằn nhất thời đại đã trở thành thánh giá vinh quang. Chúng ta nhìn thấy nơi đó một biểu tượng rạng ngời tình yêu. Thánh giá hiện diện chẳng những trong các nhà thờ chúng ta, mà còn nơi các ngả đường và trên đỉnh đồi. Khi nhìn lên Thánh giá, chúng ta khám phá ra một tình yêu được tôn vinh vượt trên tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng.
Nhưng « thấy » Chúa Giê su không thôi chưa đủ. Ngài chờ đợi chúng ta bước đi theo Ngài và bắt chước Ngài. Đó là một lời mời gọi thường được lặp đi lặp lại trong các sách tin mừng: vác thập giá và theo sau Chúa Giê su. Con đường của Đức Ki tô không bằng phẳng nhưng là một dốc thẳng đứng, là cánh cửa hẹp, hoàn toàn trái với những gì mà người ta ao ước. Trong khi con người thường quan tâm đến tiền bạc, danh vọng, thì Chúa Giê su đi tìm con người trong thân phận một con người nô lệ. Ngài xuống sống giữa chúng ta và trở nên người rốt hết. Chính vì thế mà Ngài mời gọi chúng ta đi theo Ngài đến tận cái chết để được dự phần vào trong sự phục sinh của Ngài.
Đi theo Chúa Giê su cũng là chịu đau khổ cùng với anh em chúng ta, cùng với những người sống trong sợ hãi và thất vọng. Ngài cũng mời gọi chúng ta gặp gỡ những người dấn thân trong cuộc chiến chống lại nghèo khổ. Nhiều người ki tô hữu có sáng kiến ăn chay và không tiêu xài để chia sẻ nhiều hơn với những người nghèo nhất. Vì hoàn cảnh khó khăn của họ, những người nầy biết rõ rằng tự sức, con người không thể nào tự giải thoát được. Chính vì thế mà khắp nơi trên thế giới người ta có một lối sống khác đi. Họ muốn xây dựng một giáo hội bắt đầu phục vụ người khác. Chính Giáo hội đó cho phép chúng ta gặp Chúa Giê su.
Mỗi ngày chủ nhật chúng ta cử hành Thánh Thể hiệp thông với toàn Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mạng hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giê su. Khi sai chúng ta đi làm chứng cho tình yêu và niềm hi vọng đặt nơi chúng ta, Chúa Giê su nhắc chúng ta nhớ rằng Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện xin Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm thực hiện sứ mạng mà Ngài giao phó cho chúng ta.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Bài đọc thứ nhất nói đến điều gì?
THƯA: Sau nhiều lần giao ước với loài người, cuối cùng Thiên Chúa đã nhờ tiên tri Giê rê mia loan báo một giao ước mới mà Ngài sẽ thực hiện với dân Ngài. Đó là giao ước mới, nội tâm hiệu nghiệm và vĩnh cửu. Ngài sẽ ghi luật pháp của Ngài trên trái tim và ban Thánh Thần trong tâm hồn loài người để họ có thể nhận biết Thiên Chúa.
2. HỎI: Giao ước là gì?
THƯA: Giao Ước là (hợp đồng) qui định những nghĩa vụ và quyền lợi mà cả hai bên kí kết phải tuân giữ. Giao Ước trong Kinh Thánh là sáng kiến của Thiên Chúa đi vào mối tương quan với con người, phát sinh những nghĩa vụ và quyền lợi đối với nhau, và được kí kết qua một nghi thức.
3. HỎI: Trong Cựu Ước thường nói đến mấy giao ước?
THƯA: Ba giao ước chính: Giao Ước với ông Noe (St 9,1-17), là lời Thiên Chúa hứa không tiêu diệt nhưng bảo tồn sinh mạng cho loài người. Giao ước với ông Abraham (St17,1-27), là lời hứa ban cho tình bạn và ơn cứu độ. Giao Ước Sinai (Xh 19,24), qui tụ đám dân vừa thoát ách nô lệ Ai cập thành một Dân riêng.
4. HỎI: Giao Ước cũ được thực hiện ở đâu, giữa ai, nội dung như thế nào?
THƯA: Giao Ước cũ được kí kết ở núi Si nai, giữa Thiên Chúa và dân Híp pri vừa được Mô sê dẫn ra khỏi Ai cập vào khoảng cuối thế kỉ 13 tr CN. Qua Giao ước nầy, người Israên tôn thờ Thiên Chúa là Thiên Chúa độc nhất; đổi lại, Thiên Chúa hứa nhận họ là dân riêng của Ngài. Ngài sẽ bảo vệ họ, còn họ sẽ giữ Lề Luật của Ngài. Mười điều răn là những khoản luật qui định đời sống luân lí mà dân Israên phải tuân giữ theo tinh thần Giao ước trên
5. HỎI: Giao Ước mới được thực hiện ở đâu, giữa ai, nội dung như thế nào?
THƯA: Giao Ước mới là sự hoàn thành hành vi kết ước giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, được thực hiện ở nhà tiệc li Giê ru sa lem, được kí kết trong máu Chúa Giê su trên thánh giá, mang lại ơn tha tội cho loài người để trở thành dân Mới của Thiên Chúa.
6. HỎI: Giao Ước cũ và mới có gì khác biệt không?
THƯA: Có nhiều khác biệt như trong đoạn văn Giê rê mia đã nêu lên. Đó là Giao ước vĩnh cửu, không gì có thể tiêu hủy được, ngay cả tội lỗi. Đó là Giao Ước nội tâm, Thiên Chúa ghi luật pháp của ngài trên trái tim, và ban Thánh Thần trong tâm hồn con người để họ nhận biết Ngài. Đó là Giáo ước hiệu nghiệm, thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ đem lại chiến thắng cho con người và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa với họ trong máu của Chúa Giê su. Đó là điều mà Giao Ước không thể thực hiện được.
7. HỎI: Lời hứa ấy đã được thực hiện chưa?
THƯA: Rồi, trong giờ của Chúa Giê su Ki tô. Thật vậy, nội dung của Giao ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa ghi luật của Ngài trong tâm hồn, và ban Thánh Thần cho loài người để họ có thể nhận biệt Thiên Chúa. Điều đó đã được thực hiện trong cuộc Vượt qua của Đức Ki tô
8. HỎI: “Chúng tôi muốn được thấy (gặp) ông Giê su”, thấy có nghĩa gì?
THƯA: Những người hi lạp muốn thấy Chúa Giê su. Thấy ở đây không có nghĩa là muốn thấy mặt Ngài, vì họ có thể thấy Ngài mà không cần đến ông Phi líp. Thực ra, họ muốn nói chuyện với Ngài, như khởi đầu tiến trình đức tin. Tin mừng Gioan dùng động từ thấy để chỉ thực tại đức tin. Kiểu mẫu cho đức tin nầy chính là ông Gioan khi đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giê su trong ngày Phục sinh: “Ông đã thấy và tin”.
9. HỎI: “ Ai ghét sự sống mình..”, ghét có nghĩa gì?
THƯA: Theo cách hiểu sê mít, thì “ghét” ở đây có nghĩa là yêu mến ít hơn. Do đó ai ghét sự sống mình có nghĩa là không bám chặt sự sống mình đời nầy, không coi nó như một giá trị tuyệt đối.
10. HỎI: “Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa”, tôn vinh ở đây có nghĩa gì?
THƯA: Động từ tôn vinh thứ nhất là tác động của các dầu chỉ mà Chúa Giê su đã làm để làm chứng cho Chúa Cha. Còn động từ tôn vinh sau ám chỉ đến cái chết và việc Chúa Giê su bị treo cao trên thánh giá.
11. HỎI: Làm sao để hiểu cuộc tử nạn lại tôn vinh?
THƯA: Vinh quang là ánh sáng chiếu tỏa sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng vừa kinh khủng vừa mê hoặc của thần linh. Vinh quang của Ngôi Lời nhập thể phần nào bị che khuất, nay trong cuộc khổ nạn sẽ được bộc lộ cách sung mãn: vì khi thân xác bị tan vỡ, thì sự hiện diện thần linh sẽ tràn ngập nhân tính của Chúa Giê su trong sự sống lại và thăng thiên.
12. HỎI: Chúa Giê su có thái độ nào trước giờ quyết định của Ngài?
THƯA: Tin mừng Gioan cho chúng ta thấy thái độ của Ngài: “Bây giờ hồn ta xao xuyến” (27 a). Giống như một người đứng trước sự chết, Chúa Giê su thực sự xao xuyến, rúng động, sợ hãi trước cuộc tử nạn. Thái độ nầy được các Tin mừng nhất lãm diễn đạt qua cuộc chiến đấu gay go trong vườn cây dầu trước giờ Thương khó. Nhưng cuối cùng, Ngài đã hoàn toàn làm chủ được hoàn cảnh khó khăn với ý muốn tôn vinh Thiên Chúa Cha.