CHỦ
NHẬT 3 PHỤC SINH A
Gặp gỡ Đức Giê su phục sinh

Niềm tin của chúng ta có ảo tưởng không? Đó là câu
hỏi của các môn đệ Đức Ki tô đặt ra cho mình sau ngày thứ Sáu Thánh. Đối với
họ, thật khó mà nhận ra một sự sống đang hình thành trong thử thách, vì con
người chỉ thấy mặt ngòai, chứ không nhỉn thấy thực tại bên trong, chỉ thấy cái
vỏ kén bên ngòai, chứ không thấy tiền thân con bướm đang hình thành ở bên trong
và ngày mai sẽ được Tự do bay đi.
Sách Công vụ 2,
14.22b-33
Trong những giây phút đầu tiên của lễ Hiện xuống,
ông Phê rô đã được đổi mới. Ông được đầy can đảm và khôn ngoan. Ông mạnh dạn và
không sợ sệt nói với đám đông. Có Thánh Thần thúc đẩy, Phê rô không còn biết sợ
là gì. Chính trong niềm vui vỡ bờ mà ông đã cất cao lời công bố sự Phục sinh
của Đức Ki tô.
Thánh vịnh 15
Thánh vịnh nầy diễn tả đúng tâm tình cảm nhận được
sau khi khám phá sự Phục sinh của Đức Ki tô. Đó là một bài ca hân hoan và tin
tưởng không gì có thể sánh bằng. Đó thực là một niềm hi vọng lớn lao của mọi
người ki tô hữu.
Thư thứ nhất Phê rô 1,
17-21
Để nâng đỡ nhũng ki tô hữu được mạnh dạn và can
trường trong đức tin, ở đây thánh Phê rô gợi lại sự giải thoát mà Đức Ki tô đã
mang lại cho thế gian. Chính qua cái chết đẫm máu mà Con Chiên không tì vết đã
xứng đáng hưởng sự giải thoát. Và Thiên Chúa đã phục sinh Ngài từ trong cõi
chết và cho Ngài trở nên trưởng tử của những kẻ chết.
Tin
mừng: Lc 24,13-35
NGỮ
CẢNH
Các phụ nữ đi đến viếng mồ
đã phát hiện ngôi mộ mở và trống không (24,2), các bà đã chạy về cho các môn đệ
hay tin (8-11). Tiếp sau là hai cuộc hiện ra của Chúa Giê su cho các môn đệ: với
hai môn đệ đi làng Emmaus (24,13-35) và cho các môn đệ khác ở Giê ru sa lem
(36-53)
TÌM
HIỂU
Hai
người trong nhóm: x. c.4. họ thuộc nhóm những người đã coi lời nói của các bà là
vớ vẩn. Nhóm ấy đã giải tán. Phê rô thì trở về nhà, hai môn đệ trở về quê, trở
lại cuộc sống trước đây.
Thiếu vắng Thầy, nhóm môn đệ
không còn lí do tồn tại, và hợp nhất. Các bà liên kết chung quanh Lời, nhưng
các ông thì thất vọng và mất tinh thần.
Đi
đến:
hai môn đệ đã theo Chúa Giê su lên Giê ru sa lem, nhưng giờ họ muốn quay gót
lìa xa Thành Thánh.
Họ
trò chuyện với nhau: tất cả động thái của hoạt cảnh nầy nằm trong lời
nói. Họ đi đường đàm thoại với nhau. Khi Chúa Giê su nói với họ, tâm hồn họ
đóng kín (24,17). Lời của họ làm cho họ phân tán, còn lời của Chúa Giê su liên
kết họ với nhau.
Chúa
Giê su tiến đến gần: như người Samari (10,34). Đây là cử chỉ đầu tiên của
Chúa Giê su phục sinh. Sống lại, Ngài đồng hành với con người trên đường đi của
họ. Ngài đến gần họ, nhưng họ coi Ngài là một người khách lạ. Họ nhìn Ngài bằng
cặp mắt xác thịt, và sự thiếu vắng niềm tin ngăn cản họ thấy và không nhận ra
Ngài. Chúa Giê su ở cùng họ khi họ nói về Ngài, nhưng chỉ khi nào chính Ngài
nói về mình, Ngài mới mạc khải cho họ ý nghĩa các biến cố xảy ra ở Giêrusalem,
và thực tại của Ngài. Không có đức tin, cái nhìn bị che khuất. Với đức tin, việc
lắng nghe lời thấm nhập vào tâm hồn và cho phép thấy đấng Phục sinh.
Người: Chúa Giê su có
sáng kiến đàm thọai để nhập bọn với họ. Câu hỏi của Ngài là một câu hỏi xả
giao: chia sẻ những mối bận tâm của họ; quan tâm đến câu chuyện của họ và cái
nhìn của họ về các biến cố.
Clêôpát: chắc chắn người
nầy đã được cộng đoàn ki tô hữu biết đến. Khi gọi tên, Lc đưa ra một qui chiếu
lịch sử có thể kiểm chứng được cho trình thuật của ông. Người môn đệ kia thì vô
danh: có thể đây là một lời mời gọi kín đáo đến độc giả hãy đặt mình vào vị trí
đó chăng?
Người
duy nhất:
Chúa Giê su dường như ngạc nhiên vì sự buồn bã của họ. Và họ ngạc nhiên vì việc
Ngài không biết những gì đã xảy ra ở Giê ru sa lem. Các biến cố ấy liên quan đến
toàn thể dân Israen và vận mạng của nó. Dù đi bên nhau, hai môn đệ và Chúa Giê
su ở hai đầu khoảng cách thật lớn.
Ông
Giêsu:
các môn đệ sơ lược những chặng đường chính yếu cửa cuộc đời Chúa Giê su. Lc đã
cho họ nói những lời khá giống với lời nói của Phê rô và Phao lô trong Công vụ
(2,22-23; 3,13-15;10,37-39; 13,27-29).
Vẫn
hy vọng:
khác với các diễn từ trong Công vụ, diễn từ nầy kết thúc trong thất vọng. Đó
không phải là lời công bố Tin mừng, mà là một điếu văn trước niềm hi vọng sụp đổ.
Sẽ
cứu chuộc:
có thể dịch là: Người Giải phóng. Các
tiên tri trình bày đấng Messia như là người giải thoát Israen, một Mô sê mới (gọi
là “người giải thoát” trong Công vụ
7,35). Dacaria đã hát mừng sự giải thoát (cứu chuộc) của Israen (1,68) và Chúa
Giê su đã loan báo sự giải phóng rất gần (21,28). Mất Thầy, các môn đệ tiêu tan
niềm hi vọng: do vậy họ xác tín rằng Chúa Giê su là đấng Messia.
Ngày
thứ ba rồi:
người Híp pri coi một người thực sự chết sau ba ngày: đó là trương hợp ông
Ladarô chết đã bốn ngày (Ga 11,39). Ngày thứ ba, trong các lời loan báo Phục
sinh, là ngày mà Chúa Giê su phải sống lại. Dường như điều đó tăng thêm sự thất
vọng cho các môn đệ, trong khi lẽ ra nó phải soi sáng họ.
Người
vẫn sống:
đó là điều mà các thiên sứ đã nói và thực tế là tin mừng trong ý nghĩ của Lc.
Nhưng trên miệng các môn đệ thì vẫn còn phải xét lại vì những trung gian. Đó là
một lời nói của các bà, do đó ít chắc chắn; và các bả thuật lại một lời nói của
thiên thần do đó không thể kiểm chứng được. Thế nên, bí mật về ngôi mộ vẫn còn
như là một câu hỏi.
Trong câu nầy, Clêôpha thiếu
một yếu tố chủ chốt. Ông không kể lại lời truyền cho các bà, và do các bà truyền
lại để nhớ lại lời của Chúa Giê su. Vì không qui chiếu đến lời ấy, nên hai môn
đệ vẫn mù tịt về lí lịch của người bạn đồng hành. Nhưng chính Chúa Giê su sắp
nhắc lại cho họ lời của Ngài.
Lòng
trí chậm tin: Clêôpha và người môn đệ kia ngạc nhiên về việc Chúa Giê su
không biết tin tức, còn Chúa Giê su thì lại ngạc nhiên về việc họ không có khả
năng hiểu và trách lòng trí chậm tin của họ. Còn các môn đệ qui chiếu đến Kinh
Thánh để hi vọng một đấng Messia Giải thoát. Tuy nhiên, họ bỏ qua một khía cạnh
khác của đấng Messia và một giai đọan khác của sự giải thoát: lẽ ra họ phải tiếp
nhận toàn bộ giáo huấn của các tiên tri và khám phá ra rằng đấng Messia phải chịu
tất cả những gì Chúa Giê su đã chịu. Cần có chìa khóa Kinh Thánh để hiểu điều
mà các bà đã nói, điều mà Chúa Giê su đã loan báo trước Vượt qua và bây giờ
Ngài sắp nhắc lại cho họ.
Tất
cả sách Thánh: những lời Chúa Giê su nói mà các bà đã nhắc lại và các môn đệ
đã quên, qui chiếu đến lời Thiên Chúa ghi chép trong Kinh Thánh. Nhờ đọc và suy
niệm, Chúa Giê su đã khám phá ra các con đường của sứ mạng. Ngài đã hiểu tất cả
và đã không từ chối điều gì. Về điều đó, Kinh Thánh là qui chiếu cuối cùng để
nhận ra đấng Messia. Tòan bộ các chứng lí của Phê rô và Phao lô dựa trên sự kiện
ấy (Cv 2,25; 3,18; vv).
Liên
quan đến Người: Kinh Thánh nói về Chúa Giê su. Ngài và Kinh Thánh là một. Chúa
Giê su không ở trong mồ, dấu chỉ của một quá khứ đóng, nhưng ờ trong Kinh Thánh
hướng tới tương lai. Các giai đọan khác nhau của Kinh thánh cho ta những hình ảnh
khác nhau về đấng Messia. Nối kết lại, Chúa Giê su cho thấy chính Ngài là đấng
Messia.
Hai người môn đệ được mời gọi
nhận ra đấng Messia nơi người bạn đồng hành của mình, bởi vì Ngài nói với họ rằng
Ngài thực hiện tất cả Kinh Thánh.
Làm
như:
Chúa Giê su không lừa dối, nhưng khêu gợi sự tự do nơi các người đồng hành với
Ngài.
Mời
ông ở lại với chúng tôi: cảm thấy bị lời Chúa Giê su lôi cuốn, họ muốn giữ
Ngài lại. Chiều sắp xuống giúp họ có lí do. Họ đã khẩn khỏan xin Ngài ở lại, và
Chúa Giê su đã chấp nhận. Ngài đã ban cho họ lời của Ngài và họ chia sẻ với
Ngài chiếc bánh.
Đồng
bàn với họ:
bữa ăn nầy của Chúa Giê su là một trong những bữa ăn được tin mừng thuật lại
(5,29; 7,36; 11,37; 14,1 và nhất là 22,14). Như thế Chúa Giê su phục sinh tái lập
sự thông hiệp với các môn đệ của Ngài.
Cầm
lấy bánh:
cũng như lúc đi đường Chúa Giê su chủ động trong cuộc trao đổi, giờ Ngài chủ động
trong bữa ăn. Ngài làm lại những cử chỉ như trong bữa tiệc li (22,19) và trong
lúc hóa bánh ra nhiều (9,16). Các cử chỉ giống nhau làm cho người ta nghĩ đến
bí tích Thánh Thể. Bữa ăn nầy của Chúa Giê su phục sinh là chuyển tiếp giữa những
bữa ăn bình thường trong đời của Ngài mà cao điểm là bữa tiệc li, với các bữa
ăn tạ ơn tiếp theo sau lễ Hiện xuống.
Họ
nhận ra Người: x. c.25. Họ đã nhận ra người khách của họ chính là đấng đã bị
đóng đinh, và xác không còn trong mồ nữa. Họ nhận ra qua việc bẻ bánh mà các
ông đã thường thấy trong các bữa ăn với Ngài. Việc bẻ bánh là dấu chỉ sự hiện của
Chúa Giê su Ki tô giữa các ki tô hữu. Chính Thiên Chúa đã mở mắt cho các ông để
các ông nhận ra Ngài, vì không ai có thể nhìn thấy và nhận ra Chúa Giê su với cặp
mắt nhân lọai bình thường.
Người
lại biến mất: sau khi đã thức tỉnh đức tin, Chúa Giê su có thể biến đi. Từ
nay, Ngài sẽ hiện diện một cách hữu hình dưới dấu chỉ của bánh.
Bừng
cháy:
Chúa Giê su đến mang theo lửa (12,49). Trong khi họ chờ các lưỡi lửa (Cv 2,3),
lửa và sức nóng của Ngài đã xâm chiếm tâm hồn các môn đệ. Lửa của Tin mừng sẽ
lan rộng ra.
Quay
trở lại:
đây là hành trình quay trở lại, tràn ngập niềm vui vì đã tìm lại được niềm hi vọng
đã mất. Hai môn đệ không muốn giữ riêng cho mình Tin mừng. Nhưng Chúa đã đi trước
họ, Ngài đã hiện ra với ông Phê rô. Nhóm môn đệ đã phân tán giờ đựơc tái lập
trong đức tin và nhờ đức tin vào Chúa Giê su phục sinh. Khi chia sẻ cho nhau sự
khám phá Chúa Giê su họ đã nhận ra nhau như là môn đê Ngài.
SỨ
ĐIỆP
Câu truyện hai môn đệ làng
Em-mau là một trong những trang tin mừng đẹp nhất nói về sự sống lại của Đức Ki
tô. Thánh Luca đã viết khoảng 50 năm sau cái chết và phục sinh của Chúa Giê su.
Bằng một thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, ngài trao một sứ điệp tràn ngập niềm vui
cho các cộng đòan ki tô hữu thời đó và các cộng đòan chúng ta ngày nay. Điều cốt
yếu có thể gồm tóm trong từ: “chia sẻ”.
Trước tiên, chúng ta có sự
chia sẻ đồng hành. Clêôpha và bạn mình
từ Thành Thánh trở về quê nhà. Trước kia, họ đã bỏ mọi sự đi theo Chúa Giê su,
vì đã đặt trọn hi vọng vào Ngài. Thế mà giờ đây, những gì họ hi vọng và mơ ước
vừa bị sụp đổ tan tành. Chỉ trong một vài giờ, tất cả đã tan thành mây khói.
Chúa Giê su đã bị bắt, bị kết án và bị xử tử trên một cây thập giá. Quá tuyệt vọng,
hai môn đệ thẩn thờ trở về nhà để quên đi cơn ác mộng của những ngày trước.
Nhưng rồi tin mừng kể cho
chúng ta, “Chúa Giê su tiến sát lại gần và đi với họ”. Đó là một cách tiếp cận
kín đáo theo kiểu đồng hành. Chúa Giê su nhẫn nại chăm chỉ lắng nghe họ nói và
để họ “thổ lộ hết tâm tình”. Điều đó quan trọng để họ có thể bộc lộ tất cả nỗi
chán chường của mình với một người quan tâm tới họ. Chúa Giê su vẫn im lặng lắng
nghe và từng bước đồng hành với họ. Việc cùng đi đã là một hình thức chia sẻ.
Điều đó tạo nên những mối giây liên kết tình bạn và thân mật sâu xa.
Cuộc gặp gỡ Em-mau cũng tái
diễn khi có một ai đó lại gần một kẻ thất vọng. Để đồng hành chứ không phải lướt
qua. Đi với ai đó chính là kính cẩn lắng nghe họ và để cho họ có thời giờ trút
bỏ gánh nặng xuống. Như một ngày nọ, Thầy Phê rô đã gặp một người muốn tự tử vì
cảm thấy cuộc sống không còn ý nghĩa gì nữa. Thầy đã mời anh ấy đi với mình đến
với những người nghèo để giúp họ ra khỏi cảnh bần cùng. Khi đi đến người khác,
anh ấy đã tìm lại được phẩm giá của mình. Câu chuyện Em-mau cũng xảy ra tương tự
như thế.
Cũng giống như hai môn đệ
Em-mau, chính Đức Ki tô đến gặp chúng ta trên nẻo đường chúng ta đang đi. Ngài
hiện diện và cùng với chúng ta phải đối đầu trước những tình huống đau thương
trong cuộc sống. Có Chúa Giê su cùng đi, chúng ta không cô độc. Ngài luôn đồng
hành với chúng ta, nhưng có quá nhiều lần chúng ta đã không thể nhận ra Ngài.
Và trong cuộc đồng hành ấy,
Ngài chia sẻ bằng lời nói. Trên đường
đi, Chúa Giê su kiên trì giải thích tất cả Thánh Kinh, từ Mô sê đến các tiên
tri. Ngài giúp họ hiểu rằng tất cả các đoạn văn đó nói về Ngài. Rồi Ngài nhấn mạnh:
“Đức Ki tô phải chịu đựng tất cả những điều
đó để đi vào vinh quang của Cha”. Chịu đau khổ không phải là để làm dịu
“cơn cuồng nộ của Chúa Cha”, nhưng để tình yêu nơi Ngài phải đạt đến mức độ để
chúng ta xác tín rằng mình được yêu thương một cách cưồng say như thế. Chính nhờ
sự chia sẻ Lời nói đó mà chúng ta hiểu được mọi sự.
Đó là điều hết sức ý nghĩa
cho các cộng đòan ki tô chúng ta hôm nay. Hiện giờ nhiều nơi đã tạo điều kiện
sinh hoạt cho các nhóm chia sẻ tin mừng. Học hỏi tin mừng không chỉ là chia sẻ
về việc đọc hiểu bản văn, mà còn lắng nghe các vấn đề đặt ra và dựa vào tin mừng
để gợi lên những giải đáp cụ thể. Như thế, cuộc sống chúng ta được bao bọc bởi
Lời Chúa: khi chúng ta bình an hay khi phải đối đầu với những thử thách đau
thương. Sự chia sẻ ấy làm cho chúng ta ấm lòng lại. Trong đêm tối của lầm lạc,
một ánh sáng đến để biến đổi tất cả. Từ nay, chúng ta không còn cô độc nữa.
Rồi đến sự chia sẻ thứ ba:
chia cho nhau tấm bánh. Hai môn đệ thất
vọng trở về quê nhà ở Em maus. Khi trời về chiều, người khách lạ cùng đi với họ
dường như muốn mời họ tiếp tục cuộc hành trình. Họ cố gắng níu kéo người khách ấy
lại qua đêm với họ. Trong bữa ăn theo truyền thống do thái, chính người khách lạ
đọc lời chúc tụng thay cho chủ gia đình. Nên Chúa Giê su cầm lấy bánh, đọc lời
chúc tụng và bẻ bánh và chia cho họ. Bấy giờ mắt họ mở ra và họ đã nhận ra
Ngài. Vào thời thánh Luca, các cộng đòan ki tô hữu có thói quen họp nhau lại để
“bẻ bánh”. Đó là tên gọi gán cho Tiệc Thánh Thể.
Đối với chúng ta cũng thế,
chính Thánh Thể cho phép chúng ta nhận ra Đức Ki tô và trở nên chứng nhân Phục
sinh cho Ngài. Đó là cao điểm và thời khắc vô cùng quan trọng trong tuần, nhưng
không phải là duy nhất. Sau thánh lễ ở nhà thờ, chúng ta được mời gọi hãy sống
tương thân tương ái với tất cả những người chung quanh, đặc biệt với những người
nghèo nhất và bị thử thách nhất. Chúng ta là môn đệ Đức Ki tô, chúng ta phải đi
đầu. Khi chúng ta chia sẻ với người đói khát, khi chúng ta chiến đấu chống lại
sự kì thị, khi chúng ta đồng hành với những người bị thương trong cuộc sống, đó
là những dấu chỉ cần thiết giúp cho mọi người nhận ra Đức Ki tô đang sống trong
các môn đệ và trong Gáio Hội.
Hằng tuần, chúng ta tập nhận
ra Chúa qua việc chia sẻ Lời và Thánh Thể. Cuối cùng chúng ta được sai để làm
chứng cách đơn giản nhưng bằng cả tâm hồn rằng: “Đúng thật, Chúa đã sống lại rồi, và Ngài đang ở giữa chúng ta”.
ĐÀO
SÂU
CHÚA
ĐÃ SỐNG LẠI RỒI
Cv 2,14 . 2,22-33 Phê-rô loan báo Đức Ki tô sống
lại
Tv 16,1 Lạy Chúa, Chúa đã chỉ cho con
con đường sự sống
1Pr 1,17-21 Đức Ki-tô phục sinh đem lại
cho cuộc sống chúng ta ý nghĩa đích thực
Lc 24,13-35 Đức Ki-tô phục sinh hiện ra cho các môn đệ làng Em-maus
1. HỎI:
Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?
THƯA:
CHÚA
ĐÃ SỐNG LẠI RỒI. Phê-rô can đảm loan
báo Đức Ki-tô sống lại (Bđ1). Như các môn đệ trên đường Em-maus, Đức Ki-tô phục
sinh chia sẻ cho chúng ta Lời và Bánh của Ngài (BTM). Theo lời khuyên của
Phê-rô, chúng ta hãy đặt niềm tin và hi vọng nơi Thiên Chúa (Bđ2).
2.
HỎI: Bối cảnh bài đọc một là gì?
THƯA:
Vào
ngày lễ Ngũ tuần, tức là sau hơn 50 ngày đã chối Đức Giê-su và sau đó cùng với
các môn đệ trốn sau cánh cửa đóng kín vì sợ người Do thái, Phê-rô đã mạnh mẽ
lên tiếng rao giảng về Ngài, và minh chứng rằng Ngài chính là Đấng Mê-si-a.
3.
HỎI: Nội dung bài đọc một (Cv 2,14 . 2,22-33) như thế nào?
THƯA:
Trong
bài diễn từ đầu tiên ông Phê-rô đại diện các tông đồ, lên tiếng chứng minh Đức
Giê-su, người mà dân Do thái đã giết chết và treo trên thập giá, chính là Đấng
mà Thiên Chúa đặt làm Đấng Cứu độ và đã hoàn thành lời hứa ban Thánh Thần cho mọi
người.
4.
HỎI: Phê-rô nhấn mạnh đến điều gì khi trích dẫn Thánh vịnh 15/16?
THƯA:
Phê-rô
đã nhấn mạnh đến sự liên tục trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ông đã nêu
chứng từ trong Thánh vịnh 15/16 để chứng minh rằng Đức Giê-su đích thực là Đấng
Mê-si-a. Khi Vua Đa-vít viết: “Chúa chẳng
đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải
hư nát”, Ngài đã loan báo đấng Mê-si-a sẽ phục sinh. Thế mà Đức Giê-su đã
thực sự sống lại, nên Ngài chính là Đấng Mê-si-a.
5.
HỎI: Điều gì khiến người Do thái đương thời khó chấp nhận Đức Giê-su là Đấng
Mê-si-a?
THƯA:
Điều
khiến người Do thái đương thời khó chấp nhận Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a chính
là cái chết nhục nhã của Ngài trên thập giá. Ngày thứ sáu tuần thánh, Ngài đã bị
mọi người bỏ rơi, dường như bị chính Thiên Chúa chúc dữ, vì thế theo cái nhìn của
loài người một tội nhân bị hành hình như thế không thể là Đấng Mê-si-a được.
6.
HỎI: Nội dung bài đọc 2 (1Pr 1,17-21) như
thế nào?
THƯA:
Sống
như những người đã được phục sinh có nghĩa là trở thành công dân của quê hương
trên trời, là người nhà của Thiên Chúa, do đó, hãy sống cuộc đời nầy như những
khách lử hành, tự do để phụng sự Thiên Chúa.
7.
HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Lc 24,13-35) như thế nào?
THƯA:
Bài
tin mừng thuộc chương 24 kể lại những sự kiện xảy ra sau khi Đức Giê-su sống lại:
ngôi mộ trống và phản ứng của các môn đệ (1-12), Đức Giê-su hiện ra với hai môn
đệ đi làng Em-maus (13-35), và với các môn đệ khác (36-43) trước khi ban huấn dụ
lần cuối cùng (4-49) và lên trời (50-53).
Có 4 ý chính: 1) Hai môn đệ đi về Em-maus (24,13-14); 2) Cùng đi và nói
chuyện với người khách lạ (24,15-27); 3) Nhận ra Đức Giê-su khi Người bẻ bánh
(24,28-32);4) Quay lại Giê-ru-sa-lem (24,33-35).
8.
HỎI: Nội dung bài tin mừng như thế nào?
THƯA:
Hai
môn đệ thất vọng rời bỏ các anh em mình ở Giê-ru-sa-lem đi về Em-maus. Giữa đường
họ đã gặp người khách lạ mà sau đó họ đã khám phá là chính Đức Giê-su phục
sinh. Họ vui mừng quay trở lại làm chứng rằng Ngài sống lại.
9.
HỎI: Tại sao thánh Lu-ca nhấn mạnh hai lần: ở câu 16: “mắt họ còn bị ngăn cản” và ở câu 31: “mắt họ liền mở ra”?
THƯA:
Để
nói rằng hai người môn đệ Em-maus đã được giải thoát nhờ đôi mắt đã rộng mở
sáng ra: họ đã từ sự thất vọng ê chề đến niềm vui.
10.
HỎI: Nhờ đâu mà mắt họ được mở ra?
THƯA: Nhờ Đức Giê-su
đã giải thích Kinh Thánh cho họ hiểu. Điều đó có nghĩa là Ngài ở trung tâm kế hoạch
Thiên Chúa được biểu lộ trong Kinh Thánh.
11.
HỎI: “Đấng Ki-tô lại chẳng chịu khổ hình
như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” có nghĩa gì?
THƯA:
Vinh
quang của Thiên Chúa chính là sự hiện diện của Người tỏ ra cho chúng ta, và vì
Người là tình yêu, nên chúng ta phải hiểu rằng: Đức Ki tô cần phải chịu khổ
hình để tình yêu của Thiên Chúa đươc tỏ hiện.
12. HỎI: Tác giả
Lu-ca tường thuật câu chuyện hai môn đệ Em-maus có mục đích gì?
THƯA: Đức Giê-su sống lại đã hiện ra cho các môn đệ để giúp họ xác tín rằng
ngài đã sống lại thật trong thân xác. Nhưng ở đây, Ngài hiện ra với hai
môn đồ để cho họ biết rằng Ngài vẫn hiện diện với họ, dù rằng từ nay trở đi sự
hiện diện đó sẽ vô hình.
13. HỎI: Tại sao
các môn đồ vẫn coi Đức Giê-su như một “ngôn
sứ quyền năng trong việc làm”?
THƯA: Bởi vì họ đã nghe Đức Giê-su giảng dạy như một đấng có uy quyền chứ không
như các luật sĩ. Họ còn chứng kiến những phép lạ Ngài đã làm, như một vị ngôn
sứ mà họ đã từng nghe nói. Thế nhưng họ vẫn không tin rằng Ngài là Đấng Cứu thế
vì họ chưa nhận được Thánh Thần giúp họ có đức tin đích thực.
14. HỎI: “Những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba
rồi..? câu nầy cho thấy các môn đệ thất vọng như thế
nào?
THƯA: Lời nói nầy cho thấy nỗi thất vọng ê chề của các môn dồ, vì họ tin rằng
quyền năng Thiên Chúa có thể chuyển biến mọi sự, thế mà Đức Giê-su đã bị bắt,
bị treo trên thập giá và chết đã ba ngày qua rồi mà Thiên Chúa vẫn im lặng,
chẳng can thiệp gì để cứu giúp vị ngôn sứ của Người cả.
15. HỎI: “Ngài cầm lấy bánh..”, đây có phải là
động tác cử hành bí tích Thánh Thể không?
THƯA: Không phải. Không chắc là Đức Giê-su đã tái diễn bữa Tiệc li. Nhưng ở đây
thánh Lu-ca dùng một từ vựng có tính cách Thánh Thể để cho độc giả cảm thấy
rằng việc “bẻ bánh” giúp họ gặp gỡ đấng Phục sinh, như trường hợp các môn đồ ở
Em-maus.
16. HỎI: Tại sao
lúc bấy giờ: “Mắt họ liền mở ra và họ
nhận ra Ngài” (c.31)?
THƯA: Lúc đi đường (c.16), mắt của họ còn bị che khuất, nhưng giờ đây, sau khi
Đức Giê-su trao bánh cho họ, mắt họ mở ra để nhận ra Ngài. Thật ra, chính Thiên
Chúa đã mở mắt họ. Người ta không thể thấy Đức Giê-su phục sinh bằng cặp mắt
nhân lọai, nhưng phải nhờ ơn Thiên Chúa ban. Do đó, họ là những người đầu tiên
được Thiên Chúa ban ơn nhìn thấy và nhận ra Đức Giê-su phục sinh.
17. HỎI: Tại sao
lúc bấy giờ họ mới hiểu những gì Kinh thánh nói về Đức Giê-su?
THƯA: Trong sứ vụ, Đức Giê-su đã nhiều lần nói đến cuộc khổ nạn, nhưng các môn
đệ không thể hiểu được (18,31-34). Nhưng khi đã sống lại, Ngài mới mở lòng trí
họ để họ hiểu được ý nghĩa Kinh Thánh. Như thế, chìa khóa giải thích những gì
Kinh Thánh nói về Ngài chính là cuộc Phục sinh.
18. HỎI: Có thể
cùng đi với Chúa mà không nhận ra Ngài không?
THƯA: Rất tiếc là có, điều đó đã xảy ra cho các môn đệ làng Em-maus, và cũng đã
xảy ra trong suốt lịch sử Giáo Hội.
19. HỎI: Trong
Cựu Ước, có chủ đề về “đồng hành với
Thiên Chúa” không?
THƯA: Có, trong Cựu Ước, Thiên Chúa nhờ các tiên tri, mời gọi dân Người cùng đi
với Người trong Lề Luật vĩnh cửu, ngõ hầu mọi người hưởng hạnh phúc ngay trong
đời sống trần thế nầy, như nếm trước hạnh phúc đời đời (x. Tv 119,1).
20. HỎI: Đức
Giê-su có mời gọi chúng ta đi trong Lề Luật của Thiên Chúa không?
THƯA: Có, trong câu Mt 7,13 Đức Giê-su cảnh giác chúng ta đừng đi vào “con đường thênh thang đưa tới một cánh cửa
rộng”, vì nó đưa đến sự hư mất. Trái lại, chúng ta phải đi vào cửa hẹp,
trên con đường gồ ghề, tức là sống trong Lề luật Thiên Chúa. Điều đó quả là khó
khăn cho mọi người vì tội nguyện tổ đã để lại thương tích nơi bản tính loài
người. Chúng ta được Ngài mời gọi phải cố gắng để sống theo thánh ý Thiên Chúa,
bởi vì chỉ như thế chúng ta mới đạt tới hình ảnh và giống Thiên Chúa.
21. HỎI: Nhân vật
nào trong Kinh Thánh, nhờ một sự can thiệp siêu nhiên của Đức Ki-tô Phục sinh,
đã bỏ con đường tội lỗi và hóan cải trên con đường mới dẫn đến Thiên Chúa?
THƯA: Đó là Sau-lô. Trên đường
đến Đa-mát, sau khi đã gặp Đức Ki-tô phục sinh, Sau-lô đã bỏ con đường tội lỗi
cùng với những dự tính bách hại ki tô hữu để trở thành một tông đồ nhiệt thành
của Ngài. Thánh Lu-ca trong sách Công vụ, 9,2 nhắc đến câu chuyện về ơn gọi của
Phao-lô, đã đồng hóa Con đường của
người Ki-tô với Giáo lí mà họ đã nhận
lãnh từ Đức Giê-su và phải loan báo không chút sợ sệt.
22. HỎI: Sống sứ điệp Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1.
Tin mừng khi đồng hành với Chúa trên con đường đầy vẻ chán chường, thất vọng và
ngờ vực của chúng ta. Một cách âm thầm Ngài sẽ làm sáng tỏ công trình cứu độ
thực hiện trong đời sống chúng ta. Chỉ cần lắng nghe Ngài và mời Ngài vào bàn
với chúng ta. 2. Trên đường Em-maus, Đức Giê-su đã thực hiện nhiều cuộc hoán
cải cho hai môn đệ: từ nỗi buồn đến niềm vui, từ bóng tối ngờ vực đến ánh sáng
đức tin, từ cá nhân đến cuộc sống cộng đoàn. Nếu trung thành đồng hành với
Ngài, Đức Giê-su cũng sẽ ban cho chúng ta những hồng ân ấy.
GLCG 2087 143. Đời sống luân
lý của chúng ta bắt nguồn trong lòng tin vào Thiên Chúa, Đấng mặc khải tình yêu
của Người cho chúng ta. Thánh Phao-lô nói đến "tin mà vâng phục Thiên
Chúa" (Rm 1,5; 16, 26) như là một nghĩa vụ hàng đầu. Theo thánh Phao-lô, "không
nhận biết Thiên Chúa" là nguyên nhân và lời giải thích cho mọi lệch lạc
luân lý (x. Rm 1,18-32). Bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là tin vào
Người và làm chứng về Người.